QUYỀN TỪ CHỐI NHẬN DI SẢN
Ms. Nguyễn Thị Hạnh - Mr. Quách Thanh Cường
I. Đặt vấn đề
Cá nhân với vai trò là chủ sở hữu, sử dụng tài sản có quyền định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của mình thông qua phương thức để thừa kế.[1] Theo đó, tất cả các tài sản thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người để lại di sản bao gồm di sản là tài sản riêng và cả phần tài sản trong khối tài sản chung với chủ thể khác sẽ trở thành di sản thừa kế và được chuyển giao cho người thừa kế theo di chúc hay theo quy định của pháp luật sau thời điểm mở thừa kế và các đồng thừa kế yêu cầu chia di sản thừa kế.[2]
Tuy nhiên, người thừa kế vì nguyên nhân nào đó không muốn nhận di sản có thể lập văn bản từ chối nhận di sản. Nhận thấy, quy định về quyền từ chối nhận di sản có sự thay đổi trong Bộ luật Dân sự năm 2015 (BLDS 2015) có hiệu lực vào ngày 01/01/2017 so với Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005). Với mong muốn cập nhật các quy định mới của pháp luật, áp dụng pháp luật về quyền từ chối nhận di sản được thống nhất chúng tôi tiến hành nghiên cứu, phân tích các vấn đề liên quan “Quyền từ chối nhận di sản” theo quy định pháp luật dân sự.
II. Nội dung
Khoản 1 Điều 620 BLDS 2015 quy định người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Pháp luật cho phép người thừa kế được quyền khước từ nhận di sản khi bản thân người thừa kế không muốn nhận di sản, tuy nhiên pháp luật lại ràng buộc người thừa kế không được quyền từ chối trong trường hợp việc từ chối của người thừa kế nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
Ví dụ minh họa cho quy định này như sau: Bà A lập di chúc để lại một diện tích quyền sử dụng đất 5.000m2 chia đều cho ba (03) người con trong đó có bà B. Hiện tại bà B vay số tiền 500.000.000đ tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Cần Thơ để sản xuất kinh doanh. Trong trường hợp này, nếu bà B không còn đủ tài sản thực hiện nghĩa vụ trả nợ mà từ chối nhận thừa kế thì pháp luật không cho phép.
Bên cạnh quy định về mục đích của việc từ chối nhận di sản, pháp luật dân sự còn quy định nghĩa vụ gửi văn bản từ chối cho các chủ thể khác và việc gửi phải đảm bảo đúng thời hạn.
- Đối tượng nhận văn bản từ chối:BLDS 2015 quy định để ý chí từ chối nhận di sản có hiệu lực, người thừa kế phải thể hiện ý chí dưới dạng văn bản và phải được gửi cho người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản biết.[3] So với quy định trong BLDS 2005 đã thu hẹp đối tượng người thừa kế phải gửi văn bản từ chối nhận di sản, cụ thể theo tại khoản 2 Điều 642 BLDS 2005 quy định người thừa kế phải báo cho những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản, cơ quan công chứng hoặc Ủy ban Nhân dân cấp xã nơi có địa điểm mở thừa kế về việc từ chối nhận di sản. Như vậy, kể từ ngày 01/01/2017 người thừa kế chỉ cần gửi văn bản thông báo từ chối nhận di sản cho những người thừa kế khác, người quản lý di sản và người được giao nhiệm vụ phân chia di sản mà không cần phải gửi đến Cơ quan công chứng hay Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có địa điểm mở thừa kế.
- Thời hạn từ chối nhận di sản thừa kế: BLDS 2005 quy định về thời hạn từ chối nhận di sản là 06 tháng kể từ thời điểm mở thừa kế, BLDS 2015 đã thay đổi thời hạn trên phải được thực hiện trước thời điểm phân chia di sản.[4] Việc thay đổi thời hạn trên theo quan điểm chúng tôi là phù hợp với thực tế quan hệ dân sự bởi những nguyên nhân sau:
Thứ nhất,Việc thể hiện ý chí từ chối nhận di sản là quyền của người thừa kế nhằm thể hiện ý chí khước từ nhận các di sản mà không phải là nghĩa vụ nên không cần thiết phải giới hạn thời hạn trong một mức thời gian cụ thể.
Thứ hai,Thực tiễn cho thấy nhiều trường hợp người thừa kế không biết về việc để thừa kế do cư trú ở nước ngoài nên không thực hiện được quyền từ chối trong thời hạn mà pháp luật quy định. Vì thế, không nên giới hạn thời gian được quyền từ chối của người thừa kế miễn là việc thực hiện ý định từ chối được thực hiện trước thời điểm phân chia di sản và được thực hiện theo quy định của pháp luật thì sẽ được xem là lời từ chối hợp pháp.
III. Kiến nghị
BLDS 2015 tuy có những sửa đổi, bổ sung về quyền từ chối nhận di sản của người thừa kế nhằm phù hợp với quan điểm cải cách tư pháp của Bộ Chính trị nhưng vẫn còn khiếm khuyết. Cụ thể là quy định về phương thức gửi văn bản từ chối nhận di sản.
Pháp luật không quy định cụ thể phương thức gửi văn bản từ chối nhận di sản, như vậy, có buộc người thừa kế phải trực tiếp tống đạt văn bản đến các chủ thể được đề cập phần trên hay không? Hay có thể gửi qua hình thức chuyển phát nhanh, thư điện tử.[5] Bởi lẽ, không phải người thừa kế nào cũng sinh sống, làm việc gần với những người thừa kế khác, người quản lý di sản, người được phân công phân chia di sản.
Vì vậy, chúng tôi kiến nghị nên quy định cụ thể về phương thức gửi văn bản từ chối nhận di sản và cách xác định thời điểm nhận được văn bản trong các văn bản hướng dẫn thi hành BLDS 2015 nhằm bảo vệ quyền lợi của người ngừa kế từ chối nhận di sản.